A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

TÌNH HUỐNG GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT VỀ LUẬT XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Tình huống 1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã là ông Nguyễn Văn C đi công tác từ ngày 16/02/2025 và có văn bản ủy quyền điều hành hoạt động cơ quan cho ông Trần Văn A là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, tại văn bản ủy quyền nêu rõ: “Trong thời gian đi công tác, Chủ tịch Ủy ban nhân dân ủy quyền cho ông Trần Văn A, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã điều hành, giải quyết các công việc của cơ quan theo đúng quy định của pháp luật”.

Ngày 16/5/2025, ông Trần Văn A, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã nhận được hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính của công chức địa chính xây dựng xã, ông Trần Văn A đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên cơ sở hồ sơ của công chức địa chính xây dựng xã trình. Như vậy, văn bản ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã cho Phó Chủ tịch xã là ông Trần Văn A có phù hợp với quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính?

Trả lời:

Căn cứ Luật Xử phạt vi phạm hành chính năm 2012, giao quyền trong xử phạt vi phạm hành chính được hiểu là cấp trưởng giao quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.

Căn cứ Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 28 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 quy định về giao quyền xử phạt vi phạm hành chính như sau:

          “1. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38; các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 39; các khoản 2, 2a, 3, 3a và 4 Điều 40; các khoản 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 41; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 42; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 43; các khoản 2, 3 và 4 Điều 43a; các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 44; các khoản 2, 3 và 4 Điều 45Điều 45a; các khoản 2, 3 và 4 Điều 46Điều 47khoản 3 và khoản 4 Điều 48khoản 2 Điều 48a; các khoản 2, 4 và 5 Điều 49Điều 51 của Luật này có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

          2. Việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính được thực hiện thường xuyên hoặc theo vụ việc, đồng thời với việc giao quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 119 của Luật này. Việc giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền.

          3. Cấp phó được giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện quyền được giao. Người được giao quyền không được giao quyền cho người khác.

          4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”.

Theo đó, việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính phải được thể hiện bằng quyết định. Theo hướng dẫn tại Điều 10 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP khi giao quyền trong xử phạt vi phạm hành chính cần lưu ý những điều sau:

            “Điều 10. Giao quyền trong xử phạt vi phạm hành chính

          1. Quyết định giao quyền quy định tại Điều 54, khoản 2 Điều 87 và khoản 2 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính phải xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền.

          Quyết định giao quyền phải có số, ghi rõ ngày, tháng, năm, trích yếu, ký và đóng dấu; trường hợp cơ quan, đơn vị của người giao quyền không được sử dụng dấu riêng, thì đóng dấu treo của cơ quan cấp trên.

          Phần căn cứ pháp lý ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính của cấp phó được giao quyền phải thể hiện rõ số, ngày, tháng, năm, trích yếu của quyết định giao quyền.

          2. Người được giao quyền đứng đầu hoặc phụ trách cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử phạt, thì có thẩm quyền xử phạt và được giao quyền xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính như cấp trưởng.

          3. Trong thời gian giao quyền, những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại khoản 1 Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính vẫn có thẩm quyền xử phạt, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt và áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính.

          4. Việc giao quyền chấm dứt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

          a) Hết thời hạn giao quyền ghi trong quyết định;

          b) Công việc được giao quyền đã hoàn thành;

          c) Cấp trưởng chấm dứt việc giao quyền cho cấp phó. Trong trường hợp này, việc chấm dứt giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định;

          d) Người giao quyền hoặc người được giao quyền nghỉ hưu, thôi việc, được điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, biệt phái, từ chức, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức hoặc tạm đình chỉ công tác theo quy định của pháp luật;

          đ) Người giao quyền hoặc người được giao quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết;

          e) Công việc được giao quyền tuy chưa hoàn thành nhưng vụ việc phải chuyển giao cho cơ quan, người có thẩm quyền khác xử lý theo quy định của pháp luật;

          g) Người giao quyền hoặc người được giao quyền bị khởi tố; bị tạm giữ, tạm giam để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử;

           h) Điều kiện để cấp trưởng giao quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính quy định tại khoản 2 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính không còn.”.

Tình huống 2.  Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công chức địa chính xây dựng trên địa bàn xã A đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính đối với bà Nông Thị M về hành vi lấn, chiếm hành lang an toàn giao thông. Tại biên bản vi phạm hành chính đối tượng vi phạm đã ký biên bản, phần đại diện chính quyền địa phương thì bỏ trống. Biên bản vi phạm hành chính có bắt buộc phải có chữ ký của đại diện chính quyền địa phương cấp xã không?

Trả lời:

Theo quy định tại Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được bổ sung bởi điểm 4 khoản 29 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 như sau:

          4. Biên bản vi phạm hành chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký, trừ trường hợp biên bản được lập theo quy định tại khoản 7 Điều này.

          Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi phạm không ký vào biên bản; trường hợp không có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã hoặc của người chứng kiến thì phải ghi rõ lý do vào biên bản.”.

          Như vậy, trong trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm hoặc của ít nhất 01 người chứng kiến xác nhận việc cá nhân, tổ chức vi phạm không ký vào biên bản. Theo đó, trong trường hợp này người vi phạm đã ký vào biên bản vi phạm hành chính thì không bắt buộc phải có chữ ký của đại diện chính quyền cấp xã nơi xảy ra vi phạm.

Tình huống 3. Xác định mức phạt tiền đối với trường hợp vi phạm hành chính có 01 tình tiết giảm nhẹ hoặc có 01 tình tiết tăng nặng để áp dụng thống nhất?

Trả lời:

Trường hợp hành vi vi phạm có 01 tình tiết tăng nặng/01 tình tiết giảm nhẹ hoặc sau khi giảm trừ còn 01 tình tiết tăng nặng/01 tình tiết giảm nhẹ, người có thẩm quyền xử phạt cần căn cứ các tình tiết của vụ việc để xem xét, quyết định áp dụng mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính theo nguyên tắc quy định tại khoản 4, Điều 23 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 được sửa đổi bởi khoản 9 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020, cụ thể:

- Trường hợp hành vi vi phạm có một tình tiết tăng nặng hoặc sau khi thực hiện giảm trừ còn 01 tình tiết tăng nặng: Có thể áp dụng mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính trong khoảng từ trên mức trung bình đến dưới mức tối đa của khung tiền phạt đối với hành vi đó.

- Trường hợp hành vi vi phạm có một tình tiết giảm nhẹ: Có thể áp dụng mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính trong khoảng từ trên mức tối thiểu đến dưới mức trung bình của khung tiền phạt.

Tình huống 4. Theo quy định tại Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định về việc xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính, theo đó người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm xác minh tình tiết vụ việc. Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có thể ủy quyền cho người khác để thực hiện việc xác minh không?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 thì người có thẩm quyền xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính là người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Theo chú thích số (4) tại mẫu biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính (mẫu biên bản số 05) ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP hướng dẫn cách ghi về người lập biên bản xác minh thì “ghi họ và tên của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với vụ việc hoặc họ và tên của người đại diện được người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quỷ quyền”.

Căn cứ các quy định nêu trên, mẫu biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính được ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP để áp dụng chung đối với những vụ việc thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau, theo đó về nguyên tắc thì người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính phải thực hiện việc xác minh theo quy định của Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình xử lý các vụ việc trên thực tế, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có thể ủy quyền cho người khác để thực hiện việc xác minh, bảo đảm đúng quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và pháp luật khác có liên quan.

          Tình huống 5. Tại khoản 31 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: “Đối với vụ việc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó lại có một trong các quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, miễn trách nhiệm hình sự theo bản án nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm (nếu có) và văn bản đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định có hiệu lực”.

          Vậy “kể từ ngày quyết định có hiệu lực” được hiểu như thế nào trong trường hợp này?

         

          Trả lời:

          Đối với vụ việc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự thụ lý, giải quyết, nhưng sau đó chuyển sang xử lý vi phạm hành chính trên thực tế đang có 02 cách hiểu về việc xác định thời điểm “quyết định có hiệu lực”.

          Quan điểm thứ nhất cho rằng các quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, miễn trách nhiệm hình sự theo bản án nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính khi được ban hành thì trong thời hạn 03 ngày làm việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm (nếu có) và văn bản đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

          Quan điểm thứ hai cho rằng khi nhận được văn bản đồng ý của Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền đối với các quyết định nêu trên thì trong thời hạn 03 ngày làm việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện của vụ vi phạm (nếu có) và văn bản đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

          Theo quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ Luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 9, Điều 21 Thông tư số 28/2020/TT-BCA ngày 26/3/2020 của Bộ Công an quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân thì: “Quyết định không khởi tố vụ án hình sự phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định và phải được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan này”.

          Do đó, thực tế việc chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Công an nhân dân phụ thuộc vào thời gian nhận được văn bản đồng ý của cơ quan Viện kiểm sát. Vì vậy, quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, “kể từ ngày quyết định có hiệu lực” nêu trên là kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý của Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.

 

Tác giả: Phòng Tư pháp huyện Chợ Đồn


Tin liên quan

noData
Không có dữ liệu

Tin nổi bật Tin nổi bật