Tình huống 1. Chị Hoa và anh Nam đã đăng ký kết hôn với nhau năm 2020. Tuy nhiên, do mâu thuẫn nên hai người không sống chung gần 01 năm, tuy nhiên hai anh chị vẫn chưa làm thủ tục ly hôn. Trong năm 2021, chị Hoa có qua lại với anh Thắng và có sinh được 1 bé trai (khi đó chị Hoa và anh Nam vẫn chưa ly hôn). Chị Hoa tới UBND xã để đăng ký khai sinh cho con trai và yêu cầu phần khai về người cha trong giấy khai sinh sẽ ghi thông tin của anh Thắng có được hay không?
Trả lời tình huống
Con gái của chị Hoa được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân của chị và anh Nam. Theo quy định của Điều 88, Luật hôn nhân và gia đình về xác định cha, mẹ như sau:
“1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.”
Theo quy định tại khoản 4, Điều 16 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch:
“Trường hợp con do người vợ sinh ra hoặc có thai trong thời kỳ hôn nhân nhưng vợ hoặc chồng không thừa nhận là con chung hoặc người khác muốn nhận con thì do Tòa án nhân dân xác định theo quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan đăng ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác định được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết của Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Thông tư này”.
Khoản 1 Điều 14 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 quy định, chứng cứ để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 Điều 25 và khoản 1 Điều 44 của Luật hộ tịch gồm một trong các giấy tờ, tài liệu sau đây:
“1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có chứng cứ chứng minh quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại khoản 1 Điều này thì các bên nhận cha, mẹ, con lập văn bản cam đoan về mối quan hệ cha, mẹ, con theo quy định tại Điều 5 Thông tư này, có ít nhất hai người làm chứng về mối quan hệ cha, mẹ, con”.
Điều 5 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 quy định trách nhiệm, hệ quả của việc cam đoan không đúng sự thật như sau:
“1. Trường hợp cho phép người yêu cầu đăng ký hộ tịch lập văn bản cam đoan về nội dung yêu cầu đăng ký hộ tịch thì cơ quan đăng ký hộ tịch phải giải thích rõ cho người lập văn bản cam đoan về trách nhiệm, hệ quả pháp lý của việc cam đoan không đúng sự thật.
2. Cơ quan đăng ký hộ tịch từ chối giải quyết hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ kết quả đăng ký hộ tịch, nếu có cơ sở xác định nội dung cam đoan không đúng sự thật.”
Như vậy, theo các quy định trên, nếu chị Hoa không thừa nhận đứa trẻ là con chung của chị và anh Nam thì trước tiên chị phải yêu cầu Toà án nhân dân xác định theo quy định pháp luật. Trường hợp Tòa án nhân dân từ chối giải quyết thì cơ quan đăng ký hộ tịch tiếp nhận, giải quyết yêu cầu đăng ký khai sinh cho trẻ em chưa xác định được cha hoặc đăng ký nhận cha, con, hồ sơ phải có văn bản từ chối giải quyết của Tòa án và chứng cứ chứng minh quan hệ cha, con theo quy định nêu trên.
Tình huống 2. Anh Hoàng Văn T lấy giấy tờ của anh trai để đăng ký kết hôn. Hành vi của anh T có vi phạm pháp luật không? Pháp luật hiện hành quy định các hành vi nào bị nghiêm cấm trong đăng ký hộ tịch?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 12 Luật Hộ tịch năm 2014 về các hành vi bị nghiêm cấm như sau:
1. Nghiêm cấm cá nhân thực hiện các hành vi sau đây:
a) Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ của người khác để đăng ký hộ tịch;
b) Đe dọa, cưỡng ép, cản trở việc thực hiện quyền, nghĩa vụ đăng ký hộ tịch; c) Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đăng ký hộ tịch;
d) Cam đoan, làm chứng sai sự thật để đăng ký hộ tịch;
đ) Làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ hộ tịch hoặc thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch;
e) Đưa hối lộ, mua chuộc, hứa hẹn lợi ích vật chất, tinh thần để được đăng ký hộ tịch; g) Lợi dụng việc đăng ký hộ tịch hoặc trốn tránh nghĩa vụ đăng ký hộ tịch nhằm động cơ vụ lợi, hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước hoặc trục lợi dưới bất kỳ hình thức nào;
h) Người có thẩm quyền quyết định đăng ký hộ tịch thực hiện việc đăng ký hộ tịch cho bản thân hoặc người thân thích theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình;
i) Truy cập trái phép, trộm cắp, phá hoại thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch.
2. Giấy tờ hộ tịch được cấp cho trường hợp đăng ký hộ tịch vi phạm quy định tại các điểm a, d, đ, g và h khoản 1 Điều này đều không có giá trị và phải thu hồi, huỷ bỏ.
3. Cá nhân thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 Điều này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Trường hợp cán bộ, công chức vi phạm quy định tại khoản 1 Điều này, ngoài bị xử lý như trên còn bị xử lý kỷ luật theo quy định pháp luật về cán bộ, công chức.
Như vậy, hành vi của anh T bị pháp luật nghiêm cấm và anh T đã có hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, người việc hủy giấy đăng ký kết hôn trái pháp luật thì anh có thể bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi "Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; làm hoặc sử dụng giấy tờ giả, giấy tờ của người khác để đăng ký hộ tịch".
Tình huống 3. Chị Hạnh và chồng đều là công dân Việt Nam sinh sống và làm việc tại nước ngoài. Năm 2020, Hạnh sinh con tại nước ngoài, chưa đăng ký khai sinh cho bé (bé đã về cư trú tại Việt Nam), chị muốn cho bé thủ tục đăng ký khai sinh tại Việt Nam. Chị Hạnh muốn biết hồ sơ đăng ký khai sinh cho con mình bao gồm những giấy tờ nào?
Trả lời tình huống:
Điều 29 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định như sau:
“1. Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi cư trú của trẻ em có cha hoặc mẹ hoặc cả cha và mẹ là công dân Việt Nam, thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài mà chưa được đăng ký khai sinh.
2. Người yêu cầu đăng ký khai sinh xuất trình giấy tờ chứng minh việc trẻ em cư trú tại Việt Nam và nộp các giấy tờ sau đây:
a) Tờ khai theo mẫu quy định;
b) Giấy chứng sinh hoặc giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp xác nhận về việc trẻ em được sinh ra ở nước ngoài và quan hệ mẹ - con nếu có;
c) Văn bản thỏa thuận của cha mẹ lựa chọn quốc tịch cho con theo quy định tại Khoản 1 Điều 36 của Luật Hộ tịch đối với trường hợp trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam, người kia là công dân nước ngoài.
3. Trường hợp không có giấy tờ quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều này thì thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em theo thủ tục quy định tại Khoản 5 Điều 15 của Nghị định này.
4. Ngay trong ngày tiếp nhận yêu cầu, Phòng Tư pháp kiểm tra hồ sơ. Nếu thấy hồ sơ đầy đủ, chính xác và đúng quy định pháp luật thì đăng ký theo trình tự, thủ tục quy định tại Khoản 2 Điều 36 của Luật Hộ tịch. Nội dung khai sinh được xác định theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định này”
Điều 7 Thông tư số 04/2020/TT-BTP ngày 28/5/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định:
“1. Hồ sơ đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra ở nước ngoài, có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam hoặc cha và mẹ đều là công dân Việt Nam, chưa được đăng ký khai sinh ở nước ngoài, về cư trú tại Việt Nam, được thực hiện theo quy định tại Điều 29 Nghị định số123/2015/NĐ-CP và hướng dẫn sau đây:
a) Giấy tờ chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh hợp pháp và cư trú tại Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 29 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP gồm: giấy tờ chứng minh việc trẻ em đã nhập cảnh hợp pháp vào Việt Nam (như: hộ chiếu, giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế có dấu xác nhận nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh) và văn bản xác nhận của cơ quan công an có thẩm quyền về việc trẻ em đang cư trú tại Việt Nam.
b) Việc xác định quốc tịch Việt Nam cho trẻ em khi đăng ký khai sinh được thực hiện theo quy định pháp luật Việt Nam về quốc tịch.
2. Trường hợp cha, mẹ lựa chọn quốc tịch nước ngoài cho con khi đăng ký khai sinh, thì ngoài văn bản thỏa thuận lựa chọn quốc tịch còn phải có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền của nước mà trẻ được chọn mang quốc tịch về việc trẻ có quốc tịch phù hợp quy định pháp luật của nước đó. Nếu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài không xác nhận thì cơ quan đăng ký hộ tịch thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ, nhưng để trống phần ghi về quốc tịch trong Giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh”
Tình huống 4. Anh Kiên và chị Hoà đăng ký kết hôn năm 2000, thường trú tại xã Bình An, huyện Lâm Bình. Giấy đăng ký kết hôn của anh Kiên và chị Hòa do Uỷ ban nhân dân xã Bình An cấp. Tuy nhiên, năm 2022, gia đình anh chị không may bị cháy, toàn bộ nhà và tài sản, giấy tờ lưu giữ, trong đó có giấy đăng ký kết hôn của anh chị để trong nhà đều bị cháy. Chị Hòa đến Uỷ ban nhân dân xã Bình An để xin cấp trích lục đăng ký kết hôn thì được Uỷ ban nhân dân xã trả lời không còn lưu giữ được Sổ đăng ký kết hôn năm 2000. Hỏi, trường hợp của anh Kiên và chị Hòa có được đăng ký lại giấy kết hôn không? Và cơ quan nào có thẩm quyền đăng ký lại kết hôn cho anh Kiên, chị Hòa?
Trả lời tình huống:
Căn cứ Điều 24 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định về điều kiện đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử, như sau:
“Điều 24. Điều kiện đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử
1. Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2016 nhưng Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại.
2. Người yêu cầu đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử có trách nhiệm nộp đầy đủ bản sao giấy tờ, tài liệu có nội dung liên quan đến việc đăng ký lại.
3. Việc đăng ký lại khai sinh, kết hôn chỉ được thực hiện nếu người yêu cầu đăng ký còn sống vào thời điểm tiếp nhận hồ sơ”.
Như vậy, trường hợp anh Kiên, chị Hòa thường trú tại xã Bình An, giấy đăng ký kết hôn của anh chị được Ủy ban nhân dân xã Bình An cấp trước ngày 01/01/2016, Sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất, do đó anh Kiên, chị Hòa được yêu cầu đăng ký lại kết hôn.
Điều 25 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP quy định như sau:
“Điều 25. Thẩm quyền đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử:
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh, kết hôn trước đây hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người yêu cầu thường trú, thực hiện đăng ký lại khai sinh, kết hôn.
2. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký khai tử trước đây thực hiện đăng ký lại khai tử.
Căn cứ quy định trên, anh Kiên và chị Hòa đến UBND xã Bình An (nơi đã đăng ký kết hôn đồng thời là nơi anh chị đang thường trú) để làm thủ tục đăng ký lại kết hôn.
Tình huống 5. Năm 2020, Anh Đinh Hùng thường trú tại xã S, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Từ năm 2023 đến nay, anh Hùng thường trú tại xã Q, thành phố Quảng Ngãi. Hiện nay, anh Hùng đến UBND xã Q, thành phố Quảng Ngãi đề nghị cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, tuy nhiên UBND xã Q yêu cầu anh Hùng chứng minh về tình trạng hôn nhân của anh trong thời gian anh thường trú tại xã S, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Anh Hùng cho rằng việc UBND xã Q yêu cầu anh như vậy là vô lý, đang cố tình gây khó khăn cho anh. Trường hợp anh Hùng không thể chứng minh được tình trạng hôn nhân của anh trong thời gian anh thường trú tại xã S, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn thì anh Hùng có được cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân hay không?
Trả lời tình huống:
Khoản 4 và khoản 5 Điều 22 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định:
“4. Trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người đó có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, Ủy ban nhân dân cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.
5. Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người yêu cầu theo quy định tại Khoản 3 Điều này”
Theo quy định nêu trên, anh Hùng thuộc trường hợp đã từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, do đó anh Hùng có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình. Việc UBND xã Q yêu cầu anh Hùng chứng minh về tình trạng hôn nhân của anh trong thời gian anh thường trú tại xã S, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 22 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
Trường hợp anh Hùng không thể chứng minh được tình trạng hôn nhân của anh trong thời gian anh thường trú tại xã S, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định thì công chức tư pháp - hộ tịch UBND xã Q báo cáo Chủ tịch UBND xã Q có văn bản đề nghị UBND xã S, huyện Hải Hậu nơi anh Hùng đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của anh Hùng.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, UBND xã S, huyện Hải Hậu phải tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho UBND xã Q về tình trạng hôn nhân của anh Hùng trong thời gian thường trú tại địa phương. Ngay trong ngày nhận được văn bản trả lời, nếu thấy đủ cơ sở, UBND xã Q cấp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho anh Hùng theo quy định.
Tác giả: Phòng Tư pháp huyện Chợ Đồn.