Tình huống 1. Sau khi kết hôn được 01 năm, tôi và gia đình mới biết vợ mình trước đây là gái mại dâm chứ không phải là giáo viên tiểu học như thông tin ban dầu do vợ tôi cung cấp. Biết chuyện, mẹ tôi bắt tôi phải ly hôn, nếu không bà sẽ yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn này, mặc dù tôi rất yêu vợ và không muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân. Việc kết hôn của tôi với cô ấy có bị coi là trái pháp luật không? Việc làm của mẹ tôi đúng hay sai? Nếu có thì cuộc hôn nhân của chúng tôi có thể bị hủy không?
Trả lời tình huống:
Căn cứ Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, một trong những điều kiện để được kết hôn là không được lừa dối kết hôn. Việc vợ bạn đã từng là gái mại dâm nhưng cố tình giấu giếm quá khứ đồng thời còn nói dối là giáo viên tiểu học thì thuộc trường hợp lừa dối kết hôn. Lừa dối kết hôn là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn (Khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp). Tuy nhiên bạn cũng có lỗi trong việc tìm hiểu chưa kỹ khi quyết định việc kết hôn với vợ.
Căn cứ quy định trên, trường hợp của vợ chồng bạn có thể coi là vi phạm điều kiện kết hôn. Theo quy định của pháp luật thì người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức theo quy định yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn (Khoản 1 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014).
Mẹ bạn cũng có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật của vợ chồng bạn do bạn bị lừa dối kết hôn. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các Điểm a, c và d Khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014:
- Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;
- Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
- Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
- Hội liên hiệp phụ nữ.
Tuy nhiên, do bạn và vợ bạn đang còn rất yêu nhau, bạn cũng đã bỏ qua quá khứ của cô ấy và không muốn ly hôn thì theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Đối với những trường hợp kết hôn khi một bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép là vi phạm điều kiện kết hôn, tuỳ từng trường hợp mà quyết định như sau:
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà cuộc sống không có hạnh phúc, không có tình cảm vợ chồng, thì quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Nếu sau khi bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép kết hôn mà bên bị ép buộc, bị lừa dối hoặc bị cưỡng ép đã biết, nhưng đã thông cảm, tiếp tục chung sống hoà thuận thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Như vậy, bạn đã biết bị cô ấy lừa dối nhưng đã thông cảm và không muốn ly hôn thì trong trường hợp mẹ bạn có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn của vợ chồng bạn thì Tòa án cũng có thể sẽ không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật của vợ chồng bạn.
Tình huống 2: Tôi 29 tuổi là chủ một doanh nghiệp đang làm ăn phát đạt, bạn gái kém tôi 05 tuổi. Dự kiến đầu năm chúng tôi sẽ kết hôn. Tôi muốn sau khi kết hôn thì tài sản của tôi và vợ độc lập với nhau. Tôi đã trao đổi, và bạn gái tôi cũng đồng tình. Theo đó, trong quá trình chung sống, chúng tôi chỉ để dành một khoản chi tiêu chung trong gia đình do tôi đưa cho vợ, còn thu nhập của ai thì người đó giữ. Xin hỏi, việc thống nhất như vậy giữa chúng tôi có hợp pháp không? Để rõ ràng về tài sản vợ chồng thì tôi phải làm gì?
Trả lời:
Thỏa thuận của vợ chồng bạn là hoàn toàn hợp pháp. Căn cứ Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật này. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại các điều 47, 48, 49, 50 và 59 của Luật này.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu.
Các quy định về nguyên tắc chung về chế độ tài sản vợ chồng (Điều 29), quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình (Điều 30), giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng (Điều 31), giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng (Điều 32) của Luật này được áp dụng không phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn.
Nếu vợ chồng bạn đã lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng bạn có quyền sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế đội tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định.
Thủ tục xác lập chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được quy định tại Điều 47 Luật hôn nhân và gia đình như sau:
- Việc lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn
- Thỏa thuận này phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực
- Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Nội dung của văn bản thỏa thuận chế độ tài sản vợ chồng phải bao gồm:
- Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng.
- Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
- Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
- Nội dung khác có liên quan.
Như vậy, nếu hai bạn đã thống nhất lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì trước khi đăng ký kết hôn, 2 bạn cần ra văn phòng công chứng để lập và đề nghị công chứng văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
Tình huống 3: Vợ chồng ông T thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nhằm thuận đường làm ăn của mỗi bên. Bản thỏa thuận đã được công chứng, trong đó cây sanh cảnh đặt ở hiên nhà được chia cho ông T. Khi đến nhà riêng làm việc, đối tác làm ăn của bà T đã rất thích cây cảnh này và ngỏ ý muốn mua. Ông T đã nói rằng cây cảnh thuộc quyền sở hữu riêng của ông, vợ chồng ông đã chia tài sản này rồi và ông không có ý định bán. Vài tháng sau, chẳng hiểu người khách nài nỉ thế nào, mà vợ ông T đã bán cây cảnh này với giá 500 triệu đồng. Thấy vợ khoe đã bán giúp ông cây cảnh với giá hời, ông T bàng hoàng vì cây cảnh có giá 1,6 tỷ đồng. Ông T đòi người khách trả cây nhưng không được. Ông T có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch mua bán cây cảnh của vợ ông là vô hiệu không?
Trả lời tình huống:
Căn cứ vào Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, thì thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng ông T trong thời kỳ hôn nhân là hợp pháp.
Để xác định giao dịch mua bán cây cảnh của vợ ông T có hiệu lực hay vô hiệu thì cần xác định người khách mua cây cảnh đó ngay tình hay không ngay tình.
Do cây cảnh được xác định là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình: Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình. Như vậy, nếu đây là tài sản chung của vợ chồng thì giao dịch bán cây cảnh của vợ ông T là có hiệu lực.
Tuy nhiên vợ chồng ông đã thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng (có công chứng), vì vậy căn cứ vào Điều 8 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hôn nhân và gia đình thì: Người thứ ba xác lập, thực hiện giao dịch với vợ, chồng liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán, động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu thì bị coi là không ngay tình trong những trường hợp sau đây:
- Đã được vợ, chồng cung cấp thông tin theo quy định tại Điều 16 của Nghị định này mà vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với những thông tin đó;
- Vợ chồng đã công khai thỏa thuận theo quy định của pháp luật có liên quan về việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và người thứ ba biết hoặc phải biết nhưng vẫn xác lập, thực hiện giao dịch trái với thỏa thuận của vợ chồng.
Căn cứ Điều 16 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong giao dịch với người thứ ba: Trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ, chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo quy định của Bộ luật dân sự.
Như vậy, ông T đã nói cho người khách biết cây cảnh đã được vợ chồng ông thỏa thuận chia và thuộc quyền sở hữu của riêng ông, ông không có ý định bán cây này. Căn cứ vào Điều 8 và Điều 16 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP thì người khách mua cây cảnh được xác định là người thứ ba không ngay tình. Vì vậy, giao dịch mua bán cây cảnh giữa vợ ông T với người khách này là vô hiệu, ông T có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố đây là giao dịch vô hiệu.
Tình huống 4: Sau khi kết hôn, anh Khanh và chị Hương xây dựng được ngôi nhà trên mảnh đất của bố mẹ chồng. Gần đây, anh Khanh thất nghiệp cũng không chịu tìm việc làm chỉ suốt ngày bắt chị Hương đưa tiền để đi uống rượu, chơi bài. Chị không đưa thì anh đánh đập nên chị muốn ly hôn. Mẹ chồng biết chị muốn ly hôn đã bảo chị không ở được thì đi chỗ khác vì đất này của bà (mảnh đất này trước đây bà bảo cho vợ chồng chị làm nhà, bà chỉ nói với mọi người trong nhà mà chưa làm thủ tục sang tên). Bà còn nói: “Thằng Khanh không ký thì cô không ly hôn được và cô không được mang theo đứa con nào đi hết”. Chị Hương đã nhờ anh Dũng là hòa giải viên tư vấn. Anh Dũng áp dụng quy định nào của pháp luật để tư vấn?
Trả lời:
Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Căn cứ Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mìnhbtheo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy, chị Hương có thể căn cứ vào các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình.
Tình huống 5: Chị Ánh và anh Nam kết hôn được 7 năm, có một cô con gái. Do công việc nên anh Nam đi làm xa còn chị Ánh ở nhà chăm con và bố mẹ chồng. Khi bố, mẹ chồng ốm đau, chị Ánh hết lòng chăm sóc cha mẹ chồng. Anh Nam cũng thường xuyên đi về thuốc thang cho cha mẹ. Tuy nhiên, từ khi bố mẹ chồng mất, anh Nam ít khi về nhà và gần đây thì về và đưa đơn ly hôn đề nghị chị Ánh ký vào. Chị Ánh không muốn ly hôn nên không ký, vì chị thấy mình chẳng có lỗi gì với chồng, với gia đình nhà chồng. Anh Nam gây căng thẳng buộc chị ký vào đơn và nói nếu chị không ký vào đơn yêu cầu ly hôn thì anh có thể đơn phương ly hôn. Chị Ánh đã nhờ chị Mai hòa giải viên tư vấn. Chị Mai áp dụng quy định nào của pháp luật để tư vấn cho chị Ánh?
Trả lời tình huống:
Căn cứ Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn như sau:
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Điều 52 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về khuyến khích hòa giải ở cơ sở như sau: “Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Việc hòa giải được thực hiện theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở.”
Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Như vậy, căn cứ quy định nêu trên, anh Nam làm đơn yêu cầu ly hôn đề nghị chị Ánh ký nhưng chị Ánh không ký thì anh Nam vẫn có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Vì vậy, khi thấy anh Nam vẫn kiên quyết ly hôn, chị Ánh có thể nhờ tổ hòa giải ở thôn, tổ dân phố hòa giải vụ việc.
Tác giả: Phòng Tư pháp huyện Chợ Đồn